Mộng ở đầu cây mơ lá cây
Dòng sông ngừng chảy đợi mây bay
Kêu nhau nhỏ nhẹ sầu năm ấy
Chim hải hồ bay trắng tháng ngày
Đó là mấy câu thơ Phạm Công Thiện đọc cho tôi nghe, — buổi tối hôm ấy, quây quần trong căn nhà bếp tòa soạn báo Quê Mẹ.
Phạm Công Thiện kể thêm, 4 câu thơ này, một cô hôtesse de l’air, hẳn là một người ái mộ thơ Phạm Công Thiện, đã đọc cho nghe, ở một phi trường hay trong một chuyến bay nào đó.
|
tranh Paul Klee |
Trong bầu không khí đầm ấm chiều hôm ấy, căn bếp rộn rã tiếng cười, những câu chuyện không chủ đề, chuyện nọ xọ chuyện kia, cà kê dê ngỗng, cho tới những hoạt động nóng bỏng cứu cấp hàng triệu người Việt đang vượt biển Thái Bình Dương lánh nạn Cộng Sản…
«Và thế đó, mối sầu chan chứa đành nhường chỗ, rút lui khỏi cõi lòng, trước sức tấn công của cái cơn cười vui nhiệt hứng cuồn cuộn của một vài bộ óc tài hoa nổi bật, linh hoạt mãnh liệt vô song, cao nhã tuyệt vời đôi lúc, — những bộ óc tài-khí-chịu-chơi như thường gặp vào những thời đại canh tân cách mệnh, hoặc tàn phế suy đồi, và những cuộc bàn cãi ngửa nghiêng xiêu đình đổ quán của họ dấy lên tới mức rạch đôi sơn hà, nghiêng trời trí dũng nào, mà thỉnh thoảng vài đứa, thuộc loại e dè chúng tôi, phải chạy tới bên cửa sổ xem chừng ngoài kia có đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh… » (Gérard de Nerval, Souvenirs du Valois, Mùi hương xuân sắc, Bùi Giáng dịch).
Đó là lần thứ hai hay thứ ba tôi gặp Phạm Công Thiện ở đây. Trước đó vài năm, lần đầu tiên tôi đến thăm tòa báo Quê Mẹ, anh Thi Vũ kéo tôi lên phòng văn trên gác. Không hiểu sao, cuộc nói chuyện lại xoay quanh những kỷ niệm văn chương. Chúng tôi đọc to theo trí nhớ mấy câu trong bài «Hôm nay tôi đi học» trong tập đoản văn «Quê Mẹ» của Thanh Tịnh. Bữa đó, tôi đọc lại 2 câu thơ của Phạm Công Thiện, lần đầu tiên gặp trong sách địa dư chí của Quách Tấn, «Xứ trầm hương», và tôi đã thuộc nằm lòng (01):
mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
cây khế đồi cao trổ hết bông
Một lần họp mặt khác, tôi còn nhớ có cả Đặng Tiến. Hình như hôm đó, Phạm Công Thiện đọc cho nghe mấy câu thơ rất lạ mà tôi không hiểu ý là gì:
Thân anh như con chó
Đứng đợi giữa chợ chiều…
Mãi sau này tôi mới biết 3 người Thi Vũ, Đặng Tiến, Phạm Công Thiện là đều bạn cũ từ lâu. Và hiểu rõ nghĩa thật của mấy câu thơ trên.
Trong bài «Nhớ thương Phạm Công Thiện», Đặng Tiến kể lại như sau (02):
«Thiện với tôi, duyên nợ vẫn tiếp tục: tôi ra nước ngoài, làm ngoại giao tại Thụy Sĩ, khoảng 1967. Một hôm đi làm về thì thấy Thiện ôm ba lô ngồi trước cửa. Thiện ở chơi dăm ba hôm gì đó, thường uống rượu say, rồi vác ba lô lên đường. Vài ba năm sau, tôi gặp lại anh tại Paris. Anh tá túc tại nhà in của Thi Vũ, chơi thân với họa sĩ Vĩnh Ấn. Thiện sống lang bang vất vả, có đọc cho tôi nghe bài thơ về cảnh chợ trời Montreuil:
Thân anh như con chó
Đứng đợi giữa chợ chiều
Một chiều em qua đó
Con chó đứng nhìn theo.
(…) Thỉnh thoảng anh đến tìm tôi, chiều thứ hai sau giờ tôi dạy học để cùng đi uống bia tại công trường Contrescarpes, khu Censier, nhìn những con chim đến đậu trên giây thép hay những cành trụi lá. Có hôm anh hỏi xin tôi bao thuốc lá. Tôi bảo «vậy tao mua cho mày cả tút» (cartouche). Thiện trả lời «vậy mày đưa tiền ấy cho tao mua sữa cho con». Thời điểm này anh vợ con nheo nhóc, không giới hạn sinh đẻ vì theo… quy luật thiên nhiên.»
Có một buổi họp mặt khác mà tôi vẫn nhớ như tối hôm qua.
Những người có mặt hôm đó là: Đoàn Đức Nhân, Thi Vũ, Lê Mộng Nguyên (07), Phạm Công Thiện và vài ba người khác nữa. Đặc biệt, Thi Vũ mời được ca sĩ Hoàng Oanh, đảm nhiệm ngâm thơ. Tối hôm đó, Hoàng Oanh ngâm bài «Kẻ lạ» (05) của Thi Vũ, và một bài của Phạm Công Thiện:
mười năm qua gió thổi đồi tây
tôi long đong theo bóng chim gầy
một sớm em về ru giấc ngủ
bông trời bay trắng cả rừng cây
gió thổi đồi tây hay đồi đông
hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
trong mơ em vẫn còn bên cửa
tôi đứng trên đồi mây trổ bông
gió thổi đồi thu qua đồi thông
mưa hạ ly hương nước ngược dòng
tôi đau trong tiếng gà xơ xác
một sớm bông hồng nở cửa đông
Tôi bắt đầu đọc sách Phạm Công Thiện vào năm 1967. Lúc đó bị lôi cuốn mãnh liệt khi đọc mấy lời nhắn nhủ gửi một người trẻ tuổi, trong cuốn sách mỏng "Nói với tuổi hai mươi" của Nhất Hạnh (03). Người trẻ tuổi ấy chính là Phạm Công Thiện. Trong một lần gặp mặt ở tòa báo Quê Mẹ (1984), Phạm Công Thiện đã xác nhận điều đó và kể cho chúng tôi nghe thêm ít nhiều chi tiết trước sau, chung quanh về cuốn sách đó của Thiền sư Nhất Hạnh…
Hồi đó (1967) tôi tìm đọc hết những tác phẩm của Phạm Công Thiện mới xuất bản (Trời tháng tư, Hố Thẳm Tư Tưởng, Im lặng Hố Thẳm…), và nghe tên Phạm Công Thiện nổi tiếng như cồn. Tập thơ «Ngày sinh của rắn», tôi đọc lời rao xuất bản trong một tạp chí văn nghệ đâu đó, nhưng không tìm thấy bán ở Sài Gòn (04).
Cuối năm sau (1968) tôi sang Pháp du học. Bên nhà tiếp tục gửi cho tôi thêm vài cuốn nữa của Phạm Công Thiện (Bay đi những cơn mưa phùn, Tôi là ai, Henry Miller, Tự do đầu tiên và cuối cùng…).
Đời sống học hành, yêu đương, du lịch lang thang, công việc làm ăn… cuốn đi như mộng…
Bẵng đi nhiều năm sau những cuộc gặp gỡ nói trên (trước sau 1984), tôi nghe tin Phạm Công Thiện sang Mỹ.
Hình như trong một dịp tôi sang Mỹ thăm em tôi ở Houston, tôi mua được một hai cuốn sách Phạm Công Thiện xuất bản. Nhưng bỏ trong đống sách, bao nhiêu năm không đọc tới.
Đùng một hôm, từ hơn một năm nay (2020-2021), trong cơn đại dịch lan tràn thế giới, trong một tâm tư riêng biệt, tôi bắt tay vào việc đọc lại toàn bộ 3254 câu thơ truyện Kiều, thẳng vào những văn bản bản chữ nôm cổ, đối chiếu với chữ quốc ngữ, đồng thời soát lại toàn thể những chú giải của những nhà khảo cứu truyện Kiều từ xưa tới bây giờ (Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim, Tản Đà, Trương Vĩnh Ký, Lê Văn Hòe, Đào Duy Anh, v.v.).
Rồi tình cờ, thấy lọt ra từ đống sách cũ lâu năm chưa đọc tới, 2 cuốn sách của Phạm Công Thiện: «đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất» (1988) và «Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc» (1996).
Cuốn thứ nhất, tôi nhâm nhi cả tháng nay chưa hết, hôm nay còn đánh dấu ở trang 193 trên gần 350 trang cuốn sách. Đọc đâu đó câu «anh thì lúc nào cũng thế», thấy đúng là Phạm Công Thiện. Cuốn sách này kể rất trung thực tâm tư những tháng ngày lãng đãng của Phạm Công Thiện ở Garden Grove (California, USA). Bao nhiêu tơ tưởng triết lý văn chương kỷ niệm tuối thơ tràn về như sóng vỗ… «kỷ niệm xưa về trong khói cao, nhớ nhung ướt đầy chăn gối».
Riêng quyển viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều, lúc mới đọc tôi hơi ngán ngẫm vì lối viết văn khệnh khạng học giả giáo khoa (đúng như tâm trạng hồi xưa học Truyện Kiều ở nhà trường, ngán như ăn cơm nếp nát). Nhưng kiên nhẫn đọc thêm, vì lý do «nghề nghiệp», — tôi đang làm việc chú giải Truyện Kiều —, tôi bỗng khám phá ra rằng Phạm Công Thiện đã nghiên cứu Truyện Kiều hết sức công phu, đã đọc kĩ lưỡng từng câu từng chữ tập thơ và những thi phẩm khác của Nguyễn Du. Phạm Công Thiện đọc tất cả những sách khảo cứu truyện Kiều từ xưa tới nay (Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim, Tản Đà, Trương Vĩnh Ký, Lê Văn Hòe, Đào Duy Anh, v.v.), rồi so sánh phân tích nhiều bản dịch truyện Kiều sang tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tàu.
Cuốn sách này đưa tôi trở về văn bản của Nguyễn Du, cân nhắc cách đọc âm từng chữ nôm sang chữ quốc ngữ, xét lại từng chú giải mà mình đã viết…
Rồi giật mình đọc lại những chữ, những câu, nhiều khi rất nhỏ nhặt không để ý, — bây giờ chuyển sang một bình diện khác, một bình diện khác nữa, không ngờ (06).
Nhớ tới Phạm Công Thiện là nhớ tới 2 câu thơ anh làm khi mới ngoài 20 tuổi, trên đồi chùa Hải Đức Xứ Trầm Hương:
mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
cây khế đồi cao trổ hết bông
Đặng Thế Kiệt
2022-01-29 (cuối năm Tân Sửu)
chú thích
(01) Quách Tấn «Xứ trầm hương» (1969):
Phạm Công Thiện, lúc còn tu tại Phật Học Viện (1962-1964), sáng tác được nhiều giai phẩm, trong đó có câu:
mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
cây khế đồi cao trổ hết bông
(…)
Quách Tấn ghi thêm trong đoạn viết về chùa Hải Đức ở Nha Trang: «Trong Mộng Ngân Sơn (có bài) «Lịu Địu» gởi Phạm Công Thiện:
Áo giũ ngày sương gió
Lên chùa thăm cố nhân
Non nghiêng chiều nắng xế
Lịu địu bóng nhàn vân.
«… biết đâu chùa Hải Đức lại không trở thành nơi hòa hợp đạo lý và văn chương, nơi trồng tỉa dị thảo kỳ ba để phong phú cho vườn văn hóa dân tộc.» (trang 279-280)
(02) Đặng Tiến «Nhớ thương Phạm Công Thiện»:
Thiện với tôi, duyên nợ vẫn tiếp tục: tôi ra nước ngoài, làm ngoại giao tại Thụy Sĩ, khoảng 1967. Một hôm đi làm về thì thấy Thiện ôm ba lô ngồi trước cửa. Thiện ở chơi dăm ba hôm gì đó, thường uống rượu say, rồi vác ba lô lên đường. Vài ba năm sau, tôi gặp lại anh tại Paris. Anh tá túc tại nhà in của Thi Vũ, chơi thân với họa sĩ Vĩnh Ấn. Thiện sống lang bang vất vả, có đọc cho tôi nghe bài thơ về cảnh chợ trời Montreuil :
Thân anh như con chó
Đứng đợi giữa chợ chiều
Một chiều em qua đó
Con chó đứng nhìn theo.
Dường như thời đó, anh sống nhờ vào giúp đỡ của nhà văn Henry Miller gửi từ California.
Sau đó cưới vợ, sang Đức, rồi trở lại Paris. Thỉnh thoảng anh đến tìm tôi, chiều thứ hai sau giờ tôi dạy học để cùng đi uống bia tại công trường Contrescarpes, khu Censier, nhìn những con chim đến đậu trên giây thép hay những cành trụi lá. Có hôm anh hỏi xin tôi bao thuốc lá. Tôi bảo «vậy tao mua cho mày cả tút» (cartouche). Thiện trả lời «vậy mày đưa tiền ấy cho tao mua sữa cho con». Thời điểm này anh vợ con nheo nhóc, không giới hạn sinh đẻ vì theo… quy luật thiên nhiên.
Tình hình cải thiện khi anh tìm được chỗ dạy học tại Đại Học Toulouse, môn Triết học… Tây Phương.
Sau đó, khoảng mười năm không tin tức, cho đến ngày anh lại tìm tôi tại Paris tặng cuốn kỷ yếu song ngữ Việt-Pháp có nhiều hình minh họa đẹp.
(03) Đặng Thế Kiệt «bóng ngày qua» http://bong-ngay-qua.blogspot.com/2016/07/ca-chet.html:
Năm ấy, chưa đầy 17 tuổi, tôi đang học thi Tú Tài phần Một ở Sài Gòn. Chiến tranh Việt Nam bắt đầu càng ngày càng khốc liệt. Anh tôi nghỉ phép quân đội về thành, đem tặng tôi cuốn sách mỏng nhan đề "Nói với tuổi hai mươi" của tác giả Nhất Hạnh mà tôi chưa nghe đến bao giờ. Tôi hiểu ý anh tôi dùng món quà thay lời khuyên nhủ đứa em trai. Giản dị lắm, đại khái muốn bảo tôi hãy cố gắng học giỏi thi đậu và chưa phải đi lính ngoài tiền tuyến như anh ấy bấy giờ. Nhưng khi đọc cuốn sách, mặc dù lời văn rất trong sáng ngọt ngào, tôi lại bị lôi cuốn mãnh liệt vì một lá thư của một người tuổi trẻ ngang tàng, cũng chính là đối tượng của cuốn sách kia. Nhất là mấy câu viết này (ghi lại theo trí nhớ): "Chúng tôi không cần tới các ông nữa. Chúng tôi tự gánh lấy trách nhiệm của mình trên những đôi vai yếu đuối..." Không còn nhớ trong hoàn cảnh nào, tôi vùng ra tiệm sách Khai Trí đường Lê Lợi mua về đọc ngấu nghiến bộ sách dày cộm "Ý thức mới trong văn nghệ và triết học" của Phạm Công Thiện.
(04) Tập thơ Ngày Sinh Của Rắn của Phạm Công Thiện do Thi Vũ trình bày và Nhà xuất bản, Hoa Nắng in lần thứ nhất ở Paris, 1966.
(05) Thi Vũ
KẺ LẠ
Ngày dài đêm cũng dài, vì ta sống trong hiu quạnh và cô đơn.
Bỗng chiều nay kẻ lạ đến gõ cửa.
Lòng xôn xao chan chứa mừng vui đón kẻ lạ từ xa.
Một kẻ lạ mà ta đã từng quen biết.
Ta đón mời với tất cả nhiệt tình. Như kẻ hành hương thấy dáng thánh đường.
Tựa người lữ thứ trở lại quê hương. Như nước nguồn về biển cả.
Mời kẻ lạ chén nước trà và nói năng vồn vã bao nhiêu điều chất chứa từ lâu với kẻ lạ đến từ xa
Chốc chốc giờ reo, đều như nhịp chèo xuôi sông. Kẻ lạ nhếch môi cười rồi ra đi, một nơi nào rất xa.
Ngày dài đêm cũng dài, vì ta sống trong hiu quạnh và cô đơn. Vì kẻ lạ đã đi rồi, một nơi nào rất xa.
Thi Vũ
Trich tập thơ Hoa Nắng, An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1970
http://www.gio-o.com
(06) Đặng Thế Kiệt, «Giúp đọc Truyện Kiều»
http://vietnamtudien.org/TruyenKieu/
(07) Lê Mộng Nguyên: «người hẹn cùng ta»
http://bong-ngay-qua.blogspot.com/2017/02/nguoi-hen-cung-ta_11.html