Cảm ơn bạn Phan Thị Trọng Tuyến, nhân đọc bài "Cá chết", có nhã ý cho phép đăng lại một đoản văn của bạn (trích từ Mùa Xuân và những con dã tràng, An Tiêm xuất bản, Paris, 1991) — như một tiếng đồng vọng.
(*)
Hỏi thăm những cá cùng chim,
Chim bay xa bóng, cá chìm bặt tăm.
(Phong thi, Tản Đà)
Ban đầu, tất cả những hũ, lọ, keo thuỷ tinh trong nhà bị trưng dụng và được xếp dọc theo hai bệ cửa sổ. Trong mỗi cái là một loại cá. Cá lia thia, cá phướn đen đỏ trắng cam, cá xiêm xanh tiá vàng, bạc, cá đá vằn vện oai phong. Thỉnh thoảng bọn con nít len lén nhấc tờ giấy chận, những con cá nhìn thấy nhau, đứa phùng mang trợn má húc đầu vào thành lọ, đứa sừng sộ nghinh lại, đứa chạy loăng quăng cuống quýt vòng quanh, cả bọn tôi reo hò ầm ĩ cổ võ. Cậu tôi chạy ù tới ký đầu bọn tôi cốc cốc vừa la oai oái vừa tái lập hòa bình cho bọn cá.
Rồi Đạt, thằng em tôi cũng bắt chước, đi bắt cá chốt, cá lìm kìm dưới sông lên. Lại hũ lọ lủ khủ. Dần dần, chỗ nào cũng có nhà cho cá. Và ngày nào cũng có cá chết.
Đạt thử hết nước sông cầu Sắt, tới nước "máy" Đồng Nai, hết dùng thức ăn cá lia thia tới thức ăn cá Tàu, chỉ hai hôm ba bữa là lũ cá sông xấu xí lại nằm chổng ngược trên mặt nước, phơi bụng trắng hếu. Thằng nhỏ ỷ ôi năn nỉ, cậu tôi thí cho vài con cá "thứ thiệt", chẳng biết vì cậu sợ nó bò xuống sông hoài, có ngày chết đuối hay vì cậu mới tậu thêm cá mới...
Cậu tôi đổi chác, thương lượng sao đó với những bạn hàng cá kiểng ở chợ Hàm Nghi rồi một hôm vác về hai hồ cá thủy tinh đúng điệu. Có bông đá màu đỏ, có cả rong xanh, cây cối giả bằng nhựa. Thằng em tôi sung sướng thừa hưởng mớ nhà nghèo linh tinh thủa ban đầu của cậu.
Thỉnh thoảng cậu và đám bạn hàng xóm thách đấu nhau, nhà tôi ồn ào như cái chợ. Tôi chen không nổi với đám con trai nên khinh bỉ lùi ra xa, thỉnh thoảng lé mắt, nghếch mỏ dòm dòm, nhờm tởm tưởng tượng đến lúc chúng ngắt đầu con cá dựng lên trên cây tăm, xoay xoay cây tăm trước mũi những con cá để máu nóng (của cá) hung hãn bốc lên. Cậu cười ngất:
— Con gái ngu quá, đá cá chớ có phải đá dế đâu!
Hừm, hừm, đá gì cũng vậy, mùa dế thì thây dế không đầu, giò cẳng vương vãi trên sân xi măng, muà đá cá thì xác cá trầy vi tróc vẩy nằm trong thùng rác.
Nhưng cậu là kẻ đam mê. Và đam mê cứ đến ào ạt, hết đợt này đến đợt khác, cái này đè lên cái kia, cái sau lấy chỗ cái trước. Chỉ dế, cá thôi thì đâu đủ chuyện để nói.
Từ lúc (cậu và cả tôi nữa) mới lớn lên, tôi đã thấy cậu mê chim chóc. Mỗi lần về quê, cậu rình rập, leo cây bắt tổ chim, gọt đẽo giàn ná bắn chim. Rồi hết hè về nơi thành thị, cậu tái tạo không gian và không khí nhà quê. Cậu và con mèo rất giống nhau: con mèo ngồi thu lu trên mái tôn, hai con mắt lim dim đạo đức giả, đôi chim sẻ vừa xà xuống, chưa kịp hót một tiếng nhỏ, mèo đã xồ ra, trong chớp mắt cắn cổ một con chim chạy đi, chú chim sống sót đảo qua đảo lại kêu lên những tiếng cuống quít, não nùng.
Còn cậu tôi, ngồi cạnh má tôi phết vẹc ni mấy cái chân ghế, nhưng hai con mắt và hai tai cậu nằm ngoài hàng cây ven đường trước cửa. Nhận ra tín hiệu: một tiếng hót, một tiếng cánh vỗ, cậu vụt buông cọ, chạy nhào lên gác, rút ná, tra đạn, hướng lên cây sao rậm rạp, nhắm một con mắt, thẳng tay kéo giàn rồi vụt buông những ngón tay. Lá cây rơi lả tả, cậu lại chạy a đến gốc cây, bới bới đám lá... rồi lỏn lẻn đi vào nhà, tay không. Đôi khi, cũng có một nạn điểu...
Dần dần cậu có tổ chức hơn, chững chạc hơn, bớt dã man. Cậu sắm lồng, cậu xuống phố Hàm Nghi, viếng chợ cá, tới chợ chim. Những người bán buôn năm cũ, có nhớ cậu tôi không, một chú bé nhỏ choắt, nói năng nhỏ nhẹ, đôi mắt to đen như nhung, ban đầu đi một chiếc xe đạp lau chùi bóng loáng, sau đó... xe mô lết rồi solex rồi honda. Đã nói cậu mê đủ thứ, cùng một lúc hay lần lượt trước sau, nhưng chắc chắn chưa bao giờ có dấu chấm, thậm chí dấu phết cũng hiếm hoi, giữa hai mối đam mê.
Để có chỗ cho một cái lồng chim thật to, cậu phải thanh toán bớt những chậu cá ngoài sân, lại mua bán, đổi chác nhộn cả lên. Má tôi hì hục đóng một cái nhà chim, mành lưới, cửa to, cửa nhỏ hẳn hoi. Tôi gọi là nhà vì tôi đã có thể (lén) chui vào được, nhưng cậu chẳng cho đứa nào được phép bước vào trong đó. Cậu tự làm lấy tất cả, dựng cành cây khô, lắp những chiếc nhà nhỏ xíu, những cây xích đu, làm ổ chim, gắn máng thức ăn, bình nước. Chim gì cậu cũng mua, mấy họ nhà chim chen nhau ở trong cái lồng son khổng lồ. Nào cưởng, sáo, két xanh, hoàng yến, chìa vôi, chim áo già... Chim líu lo ríu rít có khi cắn nhau chí choé, thức ăn, lông chim, kít chim văng tung toé. Cậu vẫn vui vẻ lau rửa, thay nước, xắt rau, thay hột cải, mua cả cào cào châu chấu, trùng đất cho những chú chim khó tính.
Nhưng cậu không có tay nuôi, hay vì đời cá chậu chim lồng chẳng thích hợp với ai, nhất là cho chim và cá, chúng thay phiên nhau chết. Bọn tôi, đi học về, vất cặp xuống là chúi mũi vào những ngục tù, quan sát rồi hơ hãi:
— Cậu Út ơi có một con chim chết!
— Cậu Út ơi có một con cá cứ ngáp ngáp!
Cậu lật đật vớt cá ra, rờ rẫm, thay nước. Cậu bồng chim, vớt cá ra, vuốt ve, ủ ủ trong hai bàn tay, có khi cậu vạch mỏ "người" bệnh, nhỏ vào vài giọt nước hay thuốc. Má tôi cũng bỏ việc, chẩn mạch, sai cậu lấy thuốc ra nghiền, khi thì terramycine, khi thì auréomycine có khi cả thuốc kiết lỵ, thuốc ghẻ, thuốc sốt rét... Má tôi đưa mấy đồng bạc lẻ:
— Con chạy ra phạc ma xi Ngọc Lan mua hai viên ti phô my xin, một túp ga ni đăng...
Bây giờ đùa má tôi thì má tôi giận:
— Tao nuôi tụi bây bảy tám đứa lành lặn không đui què sứt mẻ!
Nhưng cá và chim... dở hơn tụi tôi nên thi nhau về chầu... Diêm vương, Hà Bá. Ngoài tai trời, ách nước, chim cá còn chịu những khổ nạn khác nữa, ấy là chưa kể trẻ con hàng xóm nghịch ngợm cho ăn những giấy vụn, cây trái, thức ăn bậy bạ. Và chưa nhắc đến một hung thần ác mó là con khỉ Bạch Viên, má tôi mua của bác Năm phụ lái xe đò đường Sài Gòn - Đà Lạt.
Con khỉ khôn như người và phá phách hơn tụi tôi. Khỉ có một cái bệ gỗ phía trên cửa ra vào, chân khỉ bị xích vào một sợi dây dài độ hai, ba mét, khỉ thong thả chuyển vận từ ngai vàng qua đầu tủ, tụt xuống tận cửa sổ, thò tay ra ngoài xin quà bọn trẻ hàng xóm, v.v. Hễ khỉ phá quá, má tôi rầy, cậu thu ngắn dây lại; đến khi khỉ ngoan, cậu nới dây ra. Lâu lâu, thừa lúc mọi người lơ là cảnh giác, khỉ ta từ trên đầu tủ tuột xuống một cái ào, nhào lại chậu, thò tay vớt cá hất xuống đất (khỉ cột ghét cá ăn?). Và rột một cái khỉ ta đà chễm chệ trên đầu tủ, nhe hàm răng nhọn ra cười. Cậu tôi hét lên, chạy tới lượm cá bỏ vào chậu, rồi kéo sợi xích, lôi con khỉ xuống, đánh vào tay nó. Khỉ vẫn nhe răng nhưng lần này khọt khẹt kêu oan. Cá bị đau tim hấp hối. Đôi khi khỉ ta mở cửa chuồng chim, không phải để phóng thích chim mà cốt để mèo chui vào! Con mèo mướp già thích chim, mê cá như cậu tôi. Nó vớt cá tài tình không kém khỉ và hễ ăn thì chẳng như con Cám, không chừa vây, vẩy, xương da chi cả, nhưng chỉ cần nhìn: trên chậu vắng cá, dưới cửa sổ mèo ta ngồi lim dim liếm mép rồi vươn vai thẳng cánh nằm kềnh ra là biết ngay chuyện gì đã xảy ra.
Về sau, khi cậu mê xe đạp: từ xe thường rồi qua loại xe đua, rồi sau xe đạp là xe gắn máy, khoảng thời gian to lớn cậu dùng xe để đi chơi và để o bế xe như lau chùi căm xe, niền xe khiến cậu phải bỏ bê chim cá. Chúng thi nhau chết. Cậu chắc hết vốn hay chỉ vì có xế quên cá, có ngựa (sắt) quên chim, tôi không thấy cậu đi bổ sung quân số. Những chậu cá bớt dần khách trọ, trong chuồng chim cũng chỉ còn vài con bồ câu và con cưởng chỉ biết nói bốn tiếng "Má ơi! Ai đó?". Cậu đã dốc lòng nuôi dạy, chăm sóc, chuyện vãn, kiên nhẫn lập đi lập lại từng câu ngắn. Không biết ăn bao nhiêu ớt, lột lưỡi mấy phen mà rốt cục cưởng chỉ biết thêm một biến khúc nhỏ tẹo "Đạt ơi! Ai đó?".
Ngày nào cũng có con nít, người lớn đi ngang dạy cho mấy câu chào và chửi tục, song lắm thầy thối ma, hay vì óc cưởng đã bão hoà, nên trước sau bộ dĩa cưởng chỉ chứa được bấy nhiêu lời.
Cậu chỉ còn phải chăm sóc con khỉ thôi. Chẳng hiểu vì giận cậu tôi quá lơ là săn sóc hay buồn vì đã mất một mớ bạn, khỉ trở nên lộng hành, ưa phá khách đến viếng nhà sau. Một bữa, bà Chín ròm, hàng xóm với nhà tôi, ẵm con qua mắng vốn chuyện gì đó, bà vừa qua khỏi ngưỡng cửa, khỉ ném vỏ chuối ngay vào giữa mặt bà, bà chưa kip phản ứng thì khỉ tụt xuống thò tay kéo tóc đứa con. Cả hai mẹ con, kẻ la làng chói lói, người khóc thét...
Thế là cậu tôi ẵm khỉ đi Hàm Nghi. Nhà bỗng trở nên thanh bình, yên tĩnh.
Nhưng thứ hoà bình cưỡng đặt nào cũng mong manh, ngắn hạn. Chỉ vài hôm sau, cậu bê về một con... sóc. Ô, sóc dễ thương quá, cái đuôi xù ra và đôi lúc dựng ngược lên, mềm mại, hai con mắt nhỏ, mấy ngón chân, ngón tay tí hon. Khi ăn, nó cầm bằng cả hai tay như một đứa trẻ. Thế là như thường lệ, sau khi cả bọn tôi năn nỉ, khóc lóc, nằm vạ, hứa hẹn ngoan ngoãn, vâng lời, v.v. cậu cho mỗi đứa chúng tôi nựng nịu hay vuốt ve sóc, "một cái thôi!".
Cậu cột chân sóc vào sợi dây nhợ nhỏ, và đính sợi dây vào nút áo. Sóc thoăn thoắt leo ra leo vào túi áo cậu, có khi leo cả lên vai cậu, ngơ ngác ngắm nhìn xung quanh trong tiếng trầm trồ của thiên hạ. Sóc và người không bao giờ rời nhau.
Cho tới một ngày kia, cậu đánh thức cả nhà bằng một tiếng kêu kinh hoàng. Ô hô, cậu ngủ mê, lăn lộn thế nào mà đè nghiến con sóc nhỏ. Lũ nhỏ chúng tôi buồn bã bỏ sóc vào hộp giấy, làm đám táng, chôn sóc dưới gốc dừa, bên cạnh vô số những nạn vật khác của cậu. Đã bảo cậu không có tay nuôi mà! Và chuyện cậu nuôi thú là chuyện một nghìn lẻ một đêm, là một never ending story. Càng lúc cậu càng leo thang trong sự lựa chọn đam mê mới. Và đam mê nào cũng khiến lũ chúng tôi xôn xao, thán phục.
Cậu tha về nhà một con trăn con bé tí, đường kính thân trăn độ bằng ngón tay cái của ba tôi. Trong khi chờ trăn lớn để cho vào chuồng chim to (bầu bạn cùng cưởng!), cậu cho trăn ở trong một lồng chim nhỏ. Trăn cuộn tròn nằm ngủ suốt ngày, chẳng có chi đáng nói. Mỗi tháng một lần cậu mua gà con về cho trăn ăn, tôi chưa bao giờ dám đứng xem, con nít người lớn bu đen. Khi thiên hạ dang tay ra về, tôi mon men đến gần thấy trăn ta cuộn tròn nằm ngủ, một khoảng bụng phình to thật gớm ghiếc. Có khi cậu chỉ cho trăn ăn trứng gà. Trăn lớn lên rất nhanh, lâu lâu lột da thấy mà ghê. Trong đám thú vật của cậu, từ những con "củ" cậu nuôi trong cam thảo, vỏ quýt — cậu đem đến tiệm thuốc Tàu đổi lấy quế hay táo khô — đến vịt con nuôi trong chậu, từ chim yến đến dế cơm, từ cá ba sắc đến rùa Kim Quy (?) gốc gác chùa Ngọc Hoàng, con nào tôi cũng được cậu cho phép "rờ một cái" rứa mà tới con trăn tôi chịu thua một phép. Cậu dụ khị:
— Rờ thử coi, ngộ lắm, thân nó mềm, da nó cứng, máu nó lạnh...
Cậu tôi như vậy đó, lúc nào cũng ngăn cấm lũ cháu xáp lại gần bảo vật riêng tư, nhưng đứa nào lơ là thì cậu ráng thuyết phục để nó chia sẻ — từ xa xa, dĩ nhiên, tất cả các nguyên nhân khiến cậu bận bịu một cách sung sướng suốt cả đời.
Tới một bữa, cả nhà nhốn nháo: con trăn xổ chuồng trốn mất! Tôi đứng ngẩn ngơ trước lồng chim trống, tim đập đùng đùng trước hai song kẽm bị kéo rời nhau như khi Hercules bẻ cong chấn song vượt ngục. Cả đám đổ xô đi tìm... vô vọng. Anh Phước, bạn cậu, hăm he lũ trẻ:
— Tụi bây ráng kiếm cho kĩ. Nó trốn dưới mấy cái nhà sàn ven sông bắt cá hoặc gà vịt ăn đỡ, chừng lớn hơn nó lên bờ bắt... chó hay con nít ăn!
Trời ơi, mấy tuần liền, tôi không dám vô xóm, không dám qua nhà mấy con nhỏ bạn ở ven sông! Và tin rằng mười năm sau, nếu có thủy quái hoành hành ở sông cầu Bông.
Đích thị là con trăn trốn tù thuở nọ!
Khi tôi đi học xa, em tôi viết thư cho hay cậu đang nuôi một con cá... sấu! Cá sấu được nuôi trong... thau nước, đặt trên... sân thượng. Mỗi ngày má tôi đi chợ mua thức ăn cho cả nhà, vẫn phải nhớ thêm phần thịt cá cho sấu. Cho đến một hôm, chuyện phải đến xảy ra: sấu đội nắp thau, liều mình pờ lông rông xuống đất và bò thẳng ra sông tìm đến bến bờ tự do, khoảng khoát. Mười lăm năm sau xóm cầu Bông ắt lại có thêm một con giao long tác quái!
Never ending story? Không, khi đất nước hoà bình, thống nhất nam bắc một nhà và mỗi nhà túa ra bốn phương tám hướng, tôi không còn nghe cậu tôi nuôi con gì nữa. Hai đứa con, cậu mợ sinh ra từ thời "ngụy", cậu nuôi chỉ nổi một đứa, còn một đứa đi ở với dì tôi.
11-1991
Phan Thị Trọng Tuyến
Trong Muà xuân và những con dã tràng,
Nxb An Tiêm, Paris, 1991
No comments:
Post a Comment